Bỏng là tai nạn thường gặp trong sinh hoạt, trong lao động sản xuất. Tỷ lệ trẻ em bị bỏng chiếm từ 40-60% số người bị bỏng. Độ tuổi hay bị từ 1 – 6.
Ở lứa tuổi này trẻ nhỏ hay hoạt động, nghịch, tò mò, muốn khám phá và chưa hiểu hết các điều nguy hiểm; đồng thời các động tác của tay chân chưa được điều chỉnh một cách thuần thục.
1. Bỏng ở trẻ em nguy hiểm thế nào?
- Lớp da trẻ em có những đặc điểm giải phẫu và sinh lý khác người lớn. Ở tuổi mẫu giáo nhà trẻ, chiều dày của da mỏng hơn da người lớn 2,5 lần. Lớp tế bào có hạt sừng và sừng hóa rất mỏng, còn lớp mầm lại dày. Do đó việc che chở bảo vệ các lớp sâu của da không vững chắc, nên bỏng do sức nhiệt ướt cũng gây được bỏng sâu ở trẻ em. Tỷ lệ nước trong mô tế bào da trẻ em nhiều hơn người lớn, do đó dễ thấy hoại tử khô chuyển thành hoại tử ướt. Mặt khác, khả năng biểu mô hóa từ mép da lành ở trẻ em tốt hơn so với người lớn (chiều dài của sự lan mọc biểu mô tới 5-6cm so với người lớn chỉ là 3-4cm).
- Ở trẻ dưới 10 tuổi, hệ thống điều nhiệt của cơ thể cũng chưa được hoàn chỉnh nên thân nhiệt thường sốt cao sau khi bị bỏng. Trẻ dưới 2 tuổi, do sự phát triển chưa hoàn thiện của các ống niệu nhu mô thận nên chức năng bài tiết các ion natri clorua và việc tái hấp thụ nước đều kém, vì thế nước tiểu thường nhược trương với số lượng nhiều.
- Ở trẻ dưới 1 tuổi, hệ tuần hoàn ngoại vi chưa phát triển đầy đủ nên quá trình bù đắp nghèo nàn. Chuyển hóa cơ bản của trẻ nhỏ lại cao, cơ thể trẻ em lại phát triển nhanh, nhu cầu về ôxy, đạm, vitamin đòi hỏi nhiều nên nếu bị bỏng đồng thời việc ăn uống sút kém, cơ thể suy mòn rất nhanh.
- Hệ thần kinh trung ương ở trẻ nhỏ cũng chưa được vững chắc nên thường xuất hiện cơn co giật, các rối loạn về tinh thần. Các quá trình tự bảo vệ đề kháng miễn dịch ở trẻ em đều chưa hoàn thiện nên bệnh bỏng thường tiến triển nặng.
2. Đặc điểm diễn biến bỏng ở trẻ nhỏ:
- Thời kỳ đầu – sốc bỏng: gặp với diện bỏng không lớn (từ 10% diện tích cơ thể trở lên). Cũng có khi trẻ dưới 3 tuổi bị bỏng khoảng 5% cũng có biểu hiện sốc.
+ Trẻ bị sốc thường nằm yên, li bì, thờ ơ, mồ hôi lạnh, giảm cảm giác, có cơn tím tái trợn mắt, sùi bọt mép, run tay. Thường thấy thân nhiệt cao. Máu cô đặc có thể thấy hồng cầu tới 8 triệu/1mm3, bạch cầu tới 40.000/1mm3, huyết cầu tố tới 145%. Máu cô đặc do thoát huyết tương nhiều qua thành mạch. Ở các cháu bị sốc nặng, thường thấy các biến chứng như nôn ra máu, phù não. Các cháu nhỏ thở hít các khói nóng, các sản phẩm chất cháy dễ bị phù phổi cấp, suy hô hấp nặng.
- Thời kỳ thứ hai của bệnh bỏng: Đáng sợ là các biến chứng nhiễm khuẩn ở trẻ em. Tại vết bỏng hoại tử khô chuyển thành hoại tử ướt, xuất hiện các ổ hoại tử thứ phát những đám xuất huyết tại vết bỏng và dưới da lành, trạng thái nhiễm nấm Candida Albicans tại vết bỏng, miệng họng và ống tiêu hóa, đường hô hấp. Nhiễm khuẩn toàn thân ở trẻ em có một tỷ lệ tử vong cao (tới 80%). Còn gặp viêm gan, viêm thận, rối loạn tiêu hóa (nôn, đi lỏng).
- Những tai nạn bỏng thường gặp ở trẻ em:
+ Nồi nước, siêu nước, chậu nước, phích nước sôi vô ý đổ vào trẻ em. Ngã vào các chậu nước nóng sôi, nước gội đầu, nồi canh vừa nấu, nồi cháo, nồi cám lợn…
+ Ngã vào bếp lửa, nghịch lửa diêm, nghịch lửa nơi có xăng dầu.
+ Để đèn trong màn hoặc gần màn, trong lúc ngủ quên đổ đèn, lửa bén vào màn (thường bỏng cả mẹ lẫn con hoặc cả chị và em).
+ Để quạt điện trong màn, cánh quạt vướng vào màn không quay làm quạt cháy.
+ Chạy nghịch ngã vào các hố vôi tôi nóng.
+ Chơi nghịch các đồ điện, đụng chạm các nút, phích điện, dây điện đang dẫn điện.
- Thời kỳ thứ ba – suy mòn bỏng: gặp ở 44% số trẻ em bị bỏng sâu. Trẻ gầy nhanh, phù dưới da phát triển, ăn kém hoặc không ăn, đại tiểu tiện dầm dề, loét điểm tì, thưa xương, tư thế co quắp sai lệch, bán sai khớp, sai khớp bệnh lý, nhiễm độc mao mạch.
- Thời kỳ dưỡng bệnh: Các rối loạn về hệ tạo huyết, hệ tim mạch, hệ tiêu hóa, tinh thần, thần kinh… phục hồi chậm hơn so với người lớn. Thường dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn. Nếu bỏng sâu và điều trị bảo tồn, sẹo bỏng sẽ co kéo gây biến dạng chi thể khi cơ thể phát triển.
3. Điều trị bỏng ở trẻ em
- Khi điều trị bỏng ở trẻ em phải kết hợp chuyên khoa bỏng với chuyên khoa nhi và nội khoa. Việc chẩn đoán độ sâu của bỏng ở trẻ em đôi khi rất khó. Có tới 8-10% số trường hợp chẩn đoán không chính xác, do đó phải chẩn đoán bổ sung nhiều lần trong quá trình điều trị bỏng.
- Ở trẻ em, thời gian rụng hoại tử bỏng thường từ tuần thứ 2-3. Có thể dùng thuốc gây rụng hoại tử hoặc cắt bỏ dần hoại tử khi nó bắt đầu tự rụng. Ở bỏng sâu nên mổ cắt bỏ hoại tử sớm hoặc để sau khi mô hạt hình thành sẽ ghép da sớm. Chiều dày của da lấy để ghép tùy thuộc vào tuổi. Nếu diện mô hạt không lớn, dùng phương pháp ghép da mảnh lớn, tem thư. Nếu bỏng sâu diện rộng, thường dùng phương pháp Mowlem Jackson, phương pháp Tanner (mảnh da hình mắt lưới) hoặc phương pháp dùng mảnh da cực nhỏ (micro graft) hoặc ghép cấy các kératin bào.
- Trong việc chữa sốc bỏng, cần truyền đủ dịch thể, nhưng không quá nhiều đề phòng phù não, phù phổi. Dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ có kèm theo dùng nystatin để chống nấm Candida Albicans. Chú ý phòng các rối loạn và biến chứng đường tiêu hóa. Khi da ghép đã sống tốt, cần tập vận động sớm để phòng các di chứng. Có thể cho ăn qua ống thông vào dạ dày và tá tràng sớm (chú ý đề phòng sặc dịch vào thanh khí quản gây biến chứng ngạt thở tức thì).
4. 6 nguyên tắc dự phòng tai nạn bỏng trẻ em
- Theo dõi và kèm sát trẻ nhỏ đang bò và chập chững đi. Không nên mặc cho trẻ nhỏ những đồ vải nilông và quần áo bó chặt cơ thể vì dễ bốc cháy khi tiếp xúc với lửa và khó cởi ra khi cháy.
- Để các vật dụng nóng sôi, các chất dễ cháy, các chất sinh lửa, đồ điện ở nơi an toàn ngoài tầm với của trẻ nhỏ.
- Kiểm tra độ nóng của nước trong các bồn tắm cho trẻ nhỏ. Không để trẻ tự vặn vòi nước nóng.
- Nghiêm cấm trẻ đùa nghịch hoặc đến gần các hố vôi. Hố vôi phải được rào chắn và chiếu sáng vào ban đêm.
- Nghiêm cấm trẻ trèo lên cột điện và đụng chạm dây điện, phích cắm điện, đồ điện.
- Luôn nhắc nhở các cháu về phòng tránh tai nạn bỏng.