I-ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết mục tiêu của giáo dục mầm non là hình thành cho trẻ những yếu tố nhân cách đầu tiên của con Nguời, phát triển toàn diện về các lĩnh vực: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ, tình cảm xã hội. Để đạt được mục tiêu phát triển toàn diện thì ta cần kết hợp hài hoà giữa chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục đó là điều tất yếu.
Ngày nay cùng với với sự phát triển chung của xã hội, mỗi gia đình đều có số lượng con ít hơn, cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn, trình độ dân trí cũng ngày được nâng cao. Chính vì vậy việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng được gia đình và xã hội đặc biệt quan tâm. Vậy quan tâm như thế nào là đúng mực để cơ thể trẻ được khoẻ mạnh, học tập tốt, cơ thể phát triển cân đối, hài hòa, việc trước tiên ta phải có một chế độ ăn uống hợp lý, khoa học nhằm giúp trẻ ăn ngon miệng nhưng phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Hiện nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối quan tâm lớn nhất của toàn xã hội, Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của con người nhất là thể chất của trẻ, nếu bị ngộ độc thực phẩm, nhẹ thì trẻ có thể bị suy nhược cơ thể dẫn đến suy dinh dưỡng, nặng có thể dẫn đến tử vong. Vì thế, công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đòi hỏi các cơ quan liên nghành cùng chung tay vào cuộc, quản lý chặt chẽ chất lượng an toàn thực phẩm, hay nói cách khác là quản lý chặt chẽ từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Làm tốt công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm không phải là trách nhiệm của riêng cá nhân một ai, mà đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.
Đối với ngành giáo dục nói chung, trong đó bậc học mầm non nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức khâu chăm sóc nuôi dưỡng và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho trẻ ăn bán trú tại trường mầm non. Vì vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng đối với sức khoẻ trẻ thơ nó góp phần nâng cao sức học tập, lao động của trẻ trong xã hội ngày càng phát triển hiện nay. Chính vì vậy trong năm học này tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo công tác chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường Mầm no”.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tại trường Mầm non Đức Giang với 20 nhóm lớp/ 750 học sinh và 17 nhân viên nuôi dưỡng .
* Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu: “Một số biện pháp chỉ đạo công tác chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường Mầm non”.
* Thời gian nghiên cứu: Tôi thực hiện sáng kiến này trong vòng một năm học thời gian bắt đầu từ tháng 9/2016 đến tháng 4 năm 2017.
II-GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1 Cơ sở lí luận:
Trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu khái niệm Vệ sinh an toàn thực phẩm: Vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.
Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay: Trong những năm gần đây, nền kinh tế của nước ta chuyển sang cơ chế thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khác, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai … Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm.
Việc bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển đã dẩn đến các vụ ngộ độc thực phẩm.
Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các bệnh mạn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá các chương trình hành động đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trên toàn cầu đã xác định được nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ em là các bệnh đường ruột, phổ biến là tiêu chảy. Đồng thời cũng nhận thấy nguyên nhân gây các bệnh trên là do thực phẩm bị nhiễm khuẩn. Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y tế, trong 10 nguyên nhân gây tử vong thì nguyên nhân do vi sinh vật gây bệnh đường ruột đứng thứ 2.
Đối với Ngành giáo dục nói chung, bậc học Mầm non là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn nhỏ nhỏ, chưa nhận thức được đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm, nếu để xảy ra ngộ độc thực phẩm ở lứa tuổi này thì hậu quả sẽ khôn lường. Vì vậy công tác chăm sóc nuôi dưỡng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ tại nhà trường vô cùng quan trọng, là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường mầm non.
Như chúng ta đã biết thực phẩm là nguồn mang lại các chất bổ dưỡng nuôi cơ thể mà không có phương thuốc nào thay thế được mà nay lại chứa cả những chất độc hại, làm cho mọi người lo âu, thực phẩm hàng ngày có an toàn hay không nhất là đối với trẻ nhỏ được gửi vào trường bán trú thì đa số phụ huynh thường lo lắng, không an tâm khi con trẻ vào trường được chăm sóc tập thể và nơi tập trung nhiều trẻ nhỏ. Vì vậy làm thế nào để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, để tạo uy tín đối với phụ huynh để 100% phụ huynh an tâm gửi con đến trường ngày một đông hơn.
Là một cán bộ phụ trách công tác chăm sóc nuôi dưỡng trong nhà trường, bản thân tôi thực sự băn khoăn, trăn trở làm thế nào để đảm bảo an toàn tuyết đối cho trẻ tại trường mầm non, đặc biệt là làm tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì thế, Tôi đã quyết định chọn đề tài này.
2. Thực trạng vấn đề:
Thực trạng vi phạm an toàn thực phẩm ở nước ta rất đáng báo động. Theo đại diện Bộ Y tế báo cáo từ đầu năm đến nay, toàn quốc đã xảy ra 21 vụ ngộ độc thực phẩm với 641 người mắc, 627 người đi viện, 15 người tử vong. Tuy nhiên, con số tử vong vì ngộ độc thực tế chắc chắn còn cao hơn so với số liệu báo cáo của Bộ Y tế; riêng Hà Nội, từ cuối tháng 2/2017 đến nay, đã có 3 ca tử vong vì uống phải.
Từ các số liệu nêu trên cho thấy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung và ở trường mầm non tổ chức bán trú nói riêng rất quan trọng và cấp bách. Khi bắt đầu thực hiện đề tài này tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Nhà trường có các trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc tổ chức bán trú, có đầy đủ bảng biểu trong nhà bếp theo quy định.
Có đầy đủ bộ lưu mẫu thức ăn cho cả cô và trẻ. Thực hiện nghiêm túc việc lưu mẫu thức ăn hàng ngày, xây dựng thực đơn phù hợp theo mùa, Thực hiện tốt khâu giao nhận thực phẩm, cập nhật sổ sách nuôi đầy đủ, rõ ràng, biết tận dụng thực phẩm sẵn có ở địa phương giàu chất dinh dưỡng để chế biến món ăn cho trẻ.
Nhân viên dinh dưỡng đã được qua đào tạo chuyên ngành chế biến món ăn.
Thực hiện ký kết hợp đồng thực phẩm: (gạo, trứng, thịt, cá, tôm, rau quả…) với các đơn vị có đủ giấy tờ hợp lệ, có uy tín và đã được UBND Quận, Y tế quận kiểm duyệt. Về mặt pháp lý các đơn vị đó chịu trách nhiệm trước pháp luật khi có vấn đề vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đa số nhân viên nuôi dưỡng đã công tác nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề chế biến, kiểm tra VSATTP, biết sắp xếp, bố trí đồ dùng, dụng cụ nhà bếp gọn gàng, ngăn nắp có khoa học và thường xuyên vệ sinh sạch sẽ.
* Khó khăn:
Một số nhân viên nuôi dưỡng mới vào nghề, tuổi đời còn trẻ nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp nhận thực phẩm (Kiểm tra chất lượng thực phẩm), trong việc chế biến món ăn cho trẻ và chưa mạnh dạn trong công tác tuyên truyền về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Một số nhân viên nuôi dưỡng mới còn hạn chế trong công tác chọn thực phẩm, thực hiện công tác vệ sinh trong khi chế biến, vệ sinh dụng cụ sử dụng trong bếp ăn bán trú tại trường.
Lương của nhân viên nuôi dưỡng còn thấp.
Từ những thuận lợi, khó khăn trên, trước thực trạng về chất lượng an toàn thực phẩm của nhà trường, tôi suy nghĩ tìm tòi và sử dụng một số biện pháp quản lý chỉ đạo, nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non như sau:
3. Các biện pháp thực hiện:
3.1.Biện pháp 1: Bồi dưỡng kiến thức về lý thuyết, thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ.
Đầu năm học, nhà trường tổ chức tập huấn chuyên môn cho cán bộ giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng về các nội dung theo tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý và giáo viên, nhân viên, các nội dung tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm do trung tâm y tế quận phối hợp với Phòng giáo dục tổ chức,... Một trong những nội dung quan trọng là đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong việc tổ chức ăn cho trẻ tại trường mầm non, chú trọng vấn đề kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến và vệ sinh ăn uống cho trẻ.
Ví dụ: Nội dung chọn thực phẩm tươi sạch thì cung cấp cho giáo viên, nhân viên biết:
+ Nếu là thực phẩm sống: Chỉ lựa chọn những thực phẩm còn tươi mới, không bị dập nát, không có mùi, màu lạ.
+ Nếu là thực phẩm chín: Không mua khi thấy bày bán gần nơi cống rãnh, bụi bẩn, bùn lầy, nước đọng, để lẫn lộn thực phẩm sống và chín, không có dao thớt dùng riêng, không có giá kê cao, không có dụng cụ che đậy, màu sắc loè loẹt không tự nhiên và không có đồ bao gói.
+ Nếu là thực phẩm bao gói sẵn: Không mua khi không có nhãn hàng hoá, có nhãn mác nhưng không ghi hạn dùng, không ghi rõ nơi sản xuất.
+ Nếu là đồ hộp: Không mua khi hộp không có nhãn mác, không có hạn sử dụng, không ghi rõ cơ sở sản xuất, hộp phồng, méo, rạn, nứt, han rỉ.
- Thực hiện vệ sinh phòng bệnh trong các nhóm lớp ở trường mầm non như:
+ Vệ sinh môi trường: Vệ sinh không khí, giữ sạch nguồn nước, xử lý chất thải...
+ Vệ sinh nhóm lớp: Phòng học, đồ dùng, đồ chơi, nhà bếp...
+ Vệ sinh cá nhân: Vệ sinh cá nhân cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn trường.
+ Vệ sinh trẻ: thao tác rửa tay, lau mặt, đi tiểu tiện...
Những nội dung trên tôi chỉ đạo tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau như giảng trực tiếp, nghiên cứu tài liệu, thảo luận, dự thực hành...
Tổ chức bồi dưỡng kiến thức, cập nhập thông tin về vệ sinh an toàn thực phẩm thường xuyên cho giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng trong toàn trường.
Đặc biệt, là tập luyện bồi dưỡng và chỉ đạo thực hiện tốt các công tác nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh nhóm lớp, cá nhân và vệ sinh môi trường.
Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học tập, tập huấn bồi dưỡng chuyên môn hè, các lớp bồi dưỡng chuyên đề. Đối với giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng , những người trực tiếp tiếp xúc với trẻ hàng ngày, những người trực tiếp chế biến món ăn cho trẻ phải được tham gia tập huấn vệ sinh an toàn thực phẩm và có giấy chứng nhận do trung tâm y tế quận cấp..
Song song với việc tổ chức bồi dưỡng bằng lý thuyết. Bản thân tôi cũng đã chú trọng bồi dưỡng kỹ năng thực hành cho đội ngũ giáo viên như; Cách lựa chọn thực phẩm sạch, thực hành chế biến, tổ chức bữa ăn, thực hành vệ sinh cá nhân, sơ cứu khi trẻ gặp tai nạn, thương tích...
Tổ chức cho nhân viên nuôi dưỡng tham gia thi nhân viên nuôi dưỡng giỏi cấp trường ngay từ đầu năm. Xây dựng các tiết dạy mẫu có lòng ghép chủ đề vệ sinh an toàn thực phẩm qua các môn học như tìm hiểu MTXQ, làm quen văn học-chữ viết, tạo hình, thể dục, hoạt động vui chơi... giáo viên học tập rút kinh nghiệm để áp dụng trong quá trình chăm sóc trẻ.
Bên cạnh đó, Tôi đã tham mưu với hiệu trưởng phân công những nhân viên làm nhiệm vụ nuôi dưỡng lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trong chế biến món ăn cho trẻ kèm cặp những nhân viên mới vào nghề, chưa có kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác nuôi dưỡng trẻ trong nhà trường.
Thông qua các hình thức bồi dưỡng đó mà mỗi một cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường nắm được những nội dung cần thiết trong công tác chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh môi trường, vệ sinh ATTP trong trường mầm non và cộng đồng, góp phần giảm tỉ lệ trẻ suy dinh dìng trong trường mầm non.
3.2. Biện pháp 2: Chú trọng công tác vệ sinh khu vực bếp, đồ dùng dụng cụ nhà bếp và vệ sinh môi trường, vệ sinh đối với cô nuôi, giáo viên tại lớp và vệ sinh cá nhân cho trẻ.
- Vệ sinh khu vực bếp: Thực hiện nguyên tắc bếp một chiều nhằm tránh không để thực phẩm sống, chưa làm sạch và thức ăn chín, sạch chung một lối đi.
Sắp xếp vị trí các khu vực sao cho thuận tiện, gọn gàng để tránh lúc nấu nướng phải đứng lên, ngồi xuống hoặc đi lại nhiều lần, đồng thời tránh được các loại côn trùng, chuột vào bếp. Các khu vực hoạt động của bếp phải có biển đề rõ ràng: Nơi tiếp nhận thực phẩm, khu sơ chế thực phẩm, khu tinh chế, khu nấu chín, khu chế biến thực phẩm chín, khu chia ăn.
Nhà bếp có bảng phân công dây chuyền nấu trong ngày: Người nấu chính, người nấu phụ, người tiếp phẩm, sơ chế thực phẩm, vệ sinh dụng cụ.
Bếp ăn có bảng thực đơn theo tuần, bảng định lượng suất ăn hàng ngày và công khai tài chính cụ thể rõ ràng.
Chỉ đạo nhân viên din
ghiêm túc khâu vệ sinh nhà bếp theo lịch hàng ngày, tuần và tháng.
Ví dụ: Hàng ngày, khi nấu nướng xong phải dọn dẹp, sắp xếp đồ dùng, dụng cụ vào đúng nơi quy định, lau chùi quét dọn sạch sẽ, mở quạt thông gió, mở các cửa sổ để thông gió cho khô, thoáng nhà bếp trước khi đóng cửa ra về.
- Vệ sinh đồ dùng, dụng cụ nhà bếp:
Chén bát và nơi để thức ăn phải thoáng có lưới để ngăn không cho ruồi, nhặng, muỗi, chuột đậu hoặc xà vào thức ăn.
Chạn bát hàng ngày phải được lau sạch, chỗ úp bát, thìa trẻ phải khô ráo, không úp trực tiếp xuống bàn hoặc xuống tủ. Bát thìa của trẻ dùng bằng inox, không dùng loại nhựa tái sinh và phải được hấp tráng nước sôi trước khi ăn.
Có đầy đủ dụng cụ chế biến thức ăn sống, chín riêng, dụng cụ dùng xong phải được rửa sạch phơi khô, trước khi dùng phải rửa lại.
Ví dụ: Bát, dĩa, đũa, thìa… phải được rửa sạch giữ khô, ống đựng thìa đũa phải thoáng khô sạch. Các dụng cụ như soong, nồi phải được rửa sạch, sau đó phải treo cất đúng nơi quy định.
Thức ăn nấu chín được chia vào các dụng cụ bằng inox, không dùng loại nhựa tái sinh, có nắp đậy hoặc phải có lòng bàn tránh ruồi nhặng bâu vào nhiễm bẩn, tuyệt đối không dùng vải để che đậy, phủ trực tiếp lên thức ăn.
Chậu rửa, giá kệ úp dụng cụ: rổ rá, thớt, xoong nồi phải được kê cao ráo, thông thoáng và thoát nước.
Bàn chế biến và chia thức ăn được làm bằng inox và đá sạch để không thấm nước và dễ cọ rửa.
- Vệ sinh môi trường:
Rác và thức ăn hàng ngày phải đổ vào đúng nơi quy định, rác ngày nào phải xử lý ngày đó không để đến hôm sau mới xử lý gây mất vệ sinh và thu hút chuột, dán tới. Thùng rác có nắp đậy sạch sẽ, tuyệt đối không để rác rơi vãi ra xung quanh và nước thải rò rỉ ra ngoài, rác thải để xa nơi chế biến. Cống rảnh khu vực sân rửa thực phẩm, nhà bếp luôn được thông thoáng, không ứ động.
Bên cạnh vệ sinh môi trường luôn sạch sẽ, tôi đã chú trọng việc xây dựng môi trường xanh sạch đẹp, là một trong các tiêu chí hưởng ứng phong trào xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nhà trường đã phát động đến toàn thể cán bộ viên chức, các bậc cha mẹ học sinh và các cháu cùng nhau xây dựng môi trường sư phạm “Sáng-Xanh-Sạch- Đẹp”. Đây là phong trào đã được cán bộ viên chức và toàn thể cha mẹ học sinh, các cháu học sinh đồng tình hưởng ứng, cho nên cảnh quan môi trường, lớp học luôn xanh mát. Bảo vệ chăm sóc tạo cảnh quan môi trường, bỏ rác đúng nơi quy định trong sân trường, đồ chơi đẹp - sạch -an toàn và lành mạnh đó là những gì tất cả cán bộ giáo viên, cha mẹ học sinh và học sinh đã hưởng ứng tốt phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Vệ sinh đối với cô nuôi, nhân viên nhà bếp:
Nhân viên nuôi dưỡng đã được học và có chứng chỉ bồi dưỡng những kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, qua đó nắm rõ trách nhiệm của mình là phải đảm bảo nuôi dưỡng trẻ khoẻ mạnh và an toàn.
Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh cá nhân trong quá trình chế biến ăn cho trẻ như: mặc quần áo đồng phục ở trường, mang tạp dề, đầu tóc gọn gàng, móng tay, móng chân cắt ngắn, sạch sẽ. Rửa tay bằng xà phòng trước và sau khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh, qua mỗi công đoạn chế biến. Có khăn lau tay riêng và được giặt phơi khô hàng ngày.
Phải tuân thủ đúng quy trình sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn theo một chiều, không tuỳ tiện sử dụng đồ dùng, dụng cụ đựng, chế biến thực phẩm sống, chín lẫn lộn. Không được ho, khạc nhổ khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi nếm thức ăn còn thừa phải đổ đi.
Khi chia ăn cho trẻ phải đeo khẩu trang và chia bằng dụng cụ, không dùng tay bốc, chia thức ăn. Thực hiện nghiêm túc việc cân, đong chia thức ăn cho trẻ đảm bảo định lượng.
Nhân viên nhà bếp 6 tháng phải khám sức khoẻ định kỳ, được bố trí nơi thay quần áo và vệ sinh riêng, không dùng chung với khu chế biến thức ăn cho trẻ.
- Vệ sinh cá nhân đối với giáo viên tại lớp:
Chỉ đạo các giáo viên rửa tay bằng xà phòng trước khi chia ăn và cho trẻ ăn, sau khi đi vệ sinh. Đầu tóc, quần áo gọn gàng, đeo khẩu trang khi chia thức ăn và cho trẻ ăn, có dụng cụ chia thức ăn riêng, không dùng tay bốc. Chuẩn bị đủ bàn ghế, khăn ướt lau tay, dĩa đựng thức ăn rơi vãi cho trẻ. Định kỳ 6 tháng cũng khám sức khoẻ có xét nghiệm như nhân viên dinh dưỡng.
- Vệ sinh cá nhân trẻ:
+ Tăng cường kiểm tra các nhóm lớp thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt trong ngày phù hợp với từng độ tuổi, chú trọng công tác chăm sóc nuôi dưỡng và các thời điểm vệ sinh cho trẻ.
Ví dụ: Trẻ phải được rửa tay trước khi ăn bằng xà phòng dưới vòi nước chảy, rửa xong lau khô. Dạy trẻ biết rửa tay sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn, nhắc nhở cha mẹ trẻ hàng tuần cắt móng tay, móng chân cho trẻ.
+ Dạy trẻ có thói quen biết giữ vệ sinh ăn uống:
Ví dụ: Ăn chín, uống sôi, ăn chậm, nhai kỹ, ăn uống từ tốn, tránh rơi vãi, khi
thức ăn rơi vãi nhặt bỏ vào nơi quy định. Trẻ ăn xong biết đánh răng, súc miệng sạch sẽ, uống nước.
3.3. Biện pháp 3: Tăng cường công tác chỉ đạo, giám sát, kiểm tra đối với công tác chăm sóc nuôi dưỡng, chú trọng kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ở nhà bếp.
a. Chọn nguồn thực phẩm sạch:
Để có nguồn thực phẩm sạch, tôi đã tham mưu với đ/c hiệu trưởng ký hợp đồng với các cơ sở cung cấp thực phẩm sạch, có uy tín, chất lượng, có biên bản pháp lý được cấp trên cấp giấy phép đảm bảo VSATTP để lấy thực phẩm cho trẻ. Hợp đồng cung ứng thực phẩm sạch cần có những giao kèo chặt chẽ từ khâu vận chuyển thực phẩm đến khâu giao nhận thực phẩm tại bếp ăn của nhà trường, cung ứng phải đảm bảo kịp thời, đủ định lượng và chất lượng;
Ví dụ: Thực phẩm phải tươi, ngon, sạch sẽ, không bị dập nát, khô héo hoặc ôi thiu…, các dụng cụ đựng thực phẩm nên là các thùng hộp nhựa cứng, thưa, trơn, nhẵn để các thực phẩm khi vận chuyển không bị dập nát, khi rửa làm vệ sinh thùng, hộp được dễ dàng, sạch sẽ.
Nghiêm túc thực hiện việc ký kết hợp đồng với các nhà cung cấp thực phẩm.
Bản hợp đồng thực phẩm có xác nhận của hiệu trưởng nhà trường, đại diện hội phụ huynh, nhân viên dinh dưỡng và nhà cung cấp thực phẩm.
Phối hợp với Y tế phường tuyên truyền tác hại của việc sử dụng các loại hoá chất trong nuôi trồng sản xuất và bảo quản thực phẩm. .
b. Chỉ đạo công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm.
Chỉ đạo nhân viên nhà bếp tuyệt đối không nhận thực phẩm không rõ nguồn gốc, quá hạn sử dụng (đối với những mặt hàng kho), không nhận thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm đông lạnh, thực phẩm không rõ nguồn gốc, nơi sản xuất, giấy phép đăng ký chất lượng…Đặc biệt, không nhận thực phẩm không đảm bảo chất lượng như rau không xanh tươi, cá thịt không tươi…
Nhân viên nhà bếp khi tiếp nhận thực phẩm phải ghi rõ ngày, giờ nhận thực phẩm, tên thực phẩm, ghi rõ số lượng, tình trạng thực phẩm, sổ kiểm thực 3 bước,...Những thực phẩm bị dập nát có dấu hiệu không tươi, nghi ngờ hỏng, không đảm bảo chất lượng, không đúng với hợp đồng thì không được tiếp nhận và chế biến dùng cho trẻ. Các phẩm màu phụ gia thực phẩm không rõ nguồn gốc, không nằm trong danh mục cho phép của Bộ Y tế thì không được dùng trong trường mầm non.
Khi giao nhận thực phẩm, ngoài nhân viên nhà bếp còn có đại diện của nhà trường, nhân viên y tế, kế toán, đại diện giáo viên trên lớp cùng kiểm tra thực phẩm.
Thực hiện nghiêm túc kiểm thực 3 bước (kiểm tra trước khi nhận thực phẩm,
Trước khi nấu và kiểm tra trước khi ăn).
Khâu bảo quản lưu giữ tại kho và tủ lạnh của bếp ăn nhà trường đảm bảo vệ sinh, không để thực phẩm quá hạn, ẩm mốc, kém chất lượng. Các hộp đựng hoặc chai, lọ đựng gia vị, thực phẩm phải có nhãn tên, không cất giữ chung với các loại hoá chất diệt côn trùng, xà phòng, xăng dầu hoả với kho thực phẩm.
c. Chỉ đạo chế biến và bảo quản thực phẩm.
Nhân viên nuôi dưỡng chế biến thực phẩm phải đảm bảo chất lượng món ăn thơm ngon, ngon, đẹp, phù hợp với trẻ, đảm bảo an toàn. Thức ăn phải được chế biến nấu chín kỷ, nấu xong cho trẻ ăn ngay.
Thực hiện nghiêm túc quy định về lưu mẫu thức ăn: Hàng ngày, nhân viên nuôi dưỡng phải lưu mẫu thức ăn theo đúng quy định 24h. Mẫu thức ăn phải được lấy khi vừa nấu xong chuẩn bị chia ăn cho trẻ. Hộp đựng mẫu thức ăn được rửa sạch và nhúng nước sôi sát trùng trước khi đưa thức ăn vào lưu giữ. Thức ăn lấy mẫu cho vào lọ bằng sứ có nắp đậy, để 15-20p cho nguội sau đó đưa vào lưu giữ trong tủ lạnh (lưu ở ngăn mát) 24h mới bỏ đi. Mỗi loại thức ăn phải để trong một hộp riêng, có đủ lượng thức ăn tối thiểu (thức ăn đặc khoảng 150g, lỏng 250ml). Khi lưu mẫu cần ghi đầy đủ ngày, giờ, tên người lấy mẫu thức ăn và niêm phong cẩn thận. Trong tủ lạnh chỉ để lưu mẫu thực phẩm, tuyệt đối không để chung với các loại thực phẩm khác.
Hàng tháng, ban giám hiệu kiểm tra thường xuyên việc chế biến và lưu mẫu thực, góp ý điều chỉnh kịp thời những sai sót sau khi kiểm tra. Cuối tháng có nhận xét ưu điểm, tồn tại và đề ra hướng khắc phục tồn tại để nhân viên nuôi dưỡng khắc phục sửa chữa và thực hiện tốt tháng tới.
3.4. Biện pháp 4: Chỉ đạo theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng và các dịch bệnh khác:
Việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng, phòng chống dịch bệnh là việc không thể thiếu trong trường mầm non. Vì vậy, bản thân tôi đã tham mưu với hiệu trưởng xây dựng kế hoạch, chỉ đạo nhân viên y tế thực hiện nghiêm túc việc theo dõi sức khoẻ bằng biểu đồ phát triển về cân nặng và chiều cao.
Thực hiện nghiêm túc việc chuyển biểu đồ cho trẻ theo từng độ tuổi tức là theo dõi liên tục (nhà trẻ - mẫu giáo bé - mẫu giáo nhỡ - mẫu giáo lớn). Thực hiện đúng tin thần của cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung.
Quản lý tiêm chủng, giám sát dịch bệnh trong nhà trường. Nhân viên y tế nắm vững lịch tiêm chủng hiện nay của các loại vác xin, kế hoạch tiêm phòng Sởi mũi II, phòng sởi Rubella...và giám sát các bệnh truyền nhiễm trong chương trình tiêm chủng Quốc gia.
Chỉ đạo nhân viên văn phòng xử lý và chuyển tải kịp thời các công văn liên quan đến các dịch bệnh đối với cộng đồng như: Công văn số 726 KHLN/YT-GDĐT ngày 14 tháng 3 năm 2017 của Sở Y tế -Sở Giáo dục và Đào tạo về việc Phối hợp triển khai công tác phòng chống dịch và an toàn thực phẩm trong trường học năm 2017; Công văn số 156/KH-UBND ngày 22/8/2016 của UBND Thành phố về triển khai công tác Y tế học đường năm học 2016-2017; Công văn số 03/KH-UBND ngày 05/01/2017 của UBND Thành phố về công tác phòng chống dịch Thành phố Hà Nội năm 2017; Công văn số 544 của SGD&ĐT- CCTT ngày 6/3/2017 về việc Tăng cường phòng chống dịch bệnh trong trường học;... đến tất cả cán bộ giáo viên, nhân viên trong toàn trường được biết để có các biện pháp, kế hoạch phù hợp với nhóm lớp của mình. Qua đó càng nâng cao nhận thức của đội ngũ về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và VSATTP ở trường mầm non.
3.5. Biện pháp 5: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các ban ngành và phụ huynh, lồng ghép nội dung VSATTP vào các hoạt động trong ngày của trẻ.
Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên, nhân viên thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền với các ban ngành và phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ, thông qua những hình thức như: Tuyên truyền qua loa truyền thanh địa phương, các buổi họp phụ huynh, các hội thi, qua góc tuyên truyền giáo dục các bậc cha mẹ của lớp và nhà trường. Phối hợp với các ban ngành và phụ huynh để triển khai các công văn khẩn cấp của Trung ương, địa phương về dịch bệnh theo mùa, tuyên truyền tháng vệ sinh an toàn thực phẩm, tuyên truyền cho phụ huynh nhận thức, thực hiện 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý cho các bậc cha mẹ trong việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
Tổ chức cho phụ huynh tham quan bếp ăn, hướng dẫn cách chế biến thức ăn, tham quan giờ ăn của trẻ cũng như tham quan họat động bé tập làm nội trợ. Hàng tháng yêu cầu phụ huynh kết hợp với nhà trường kiểm tra nhà bếp 1-2 lần về thu-chi trong ngày, cách chế biến, VSAT thực phẩm, cân đong ...
Phụ huynh phải nhận thức thấy rõ việc ăn uống là một nhu cầu cấp bách hàng ngày của trẻ. Ăn uống theo đúng yêu cầu dinh dưỡng thì thể lực, trí tuệ phát triển tốt, giúp gia đình đạt được ước mơ con cái khoẻ mạnh, thông minh, học giỏi.
Bên cạnh đó, chỉ đạo giáo viên đưa nội dung giáo dục môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm vào các giờ hoạt động, nhằm giúp trẻ tích cực tham gia giữ vệ sinh đảm bảo an toàn thực phẩm như: lao động tự phục vụ, giữ vệ sinh môi trường, rèn thói quen vệ sinh cá nhân và các hành vi văn minh nơi công cộng, tạo môi trường thân thiện trong trường lớp mầm non.
Ví dụ: Tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng sức khỏe vào các chủ đề Bản bản thân, gia đình... Ở các chủ đề này chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp những nội dung sau:
- Làm quen với các món ăn tại trường, tập ăn hết suất, rèn luyện hành vi văn minh trong ăn uống: Biết mời cô và các bạn trước khi ăn; ngồi ăn ngay ngắn, không co chân lên ghế; cầm thìa bằng tay phải tự xúc ăn gọn gàng, tránh đổ vãi, ăn từ tốn, nhai kỹ, không nói chuyện và đùa nghịch trong khi ăn.
- Tập tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày tại trường: Tự cất, dọn đồ dùng ăn uống sau khi ăn, lấy gối lên giường đi ngủ.
- Tập luyện thói quen tốt về vệ sinh cá nhân, đi vệ sinh đúng nơi qui định. Giữ gìn vệ sinh môi trường như không khạc nhổ nơi công cộng, vứt rác đúng nơi qui định.
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động góc qua trò chơi “Bán hàng” chủ đề "Gia đình, thế giới thực vật" khi mua hàng các cháu phải biết chọn thực phẩm tươi ngon, thực phẩm không bị rập nát. Qua trò chơi “Nấu ăn” các cháu biết rửa tay và vệ sinh đồ dùng, rửa sạch thực phẩm trước khi chế biến, phải biết ăn chín uống sôi.
Hoặc đối với chủ đề "Thế giới thực vật" cho trẻ làm quen các loại rau, quả thông qua trò chơi học tập “Phân nhóm thực phẩm” thì cần phải chuẩn bị những lô tô về các loại rau ăn củ, rau ăn quả, rau ăn lá và trò chơi“Thi xem ai nhanh” yêu cầu trẻ lấy đúng và xếp nhanh, phân loại nhóm chất dinh dưỡng theo yêu cầu của cô giáo. Qua các trò chơi giúp trẻ nhận biết và nhớ lâu các nhóm thực phẩm trẻ biết nhóm nào nên ăn nhiều và nhóm nào ăn hạn chế.
3.6. Biện pháp 6: Tham mưu mua sắm cơ sở vật chất.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị là phương tiện để thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ. Nếu cơ sở vật chất đầy đủ sẽ góp phần rất lớn vào kết quả chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và công tác VSATTP nói riêng.
Hàng năm, nhà trường đã trang cấp khá đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các lớp, nhất là đồ dùng phục vụ bán trú, nhưng qua quá trình sử dụng đã hư hỏng nhiều. Vì vậy, qua đợt kiểm kê tài sản cuối năm học 2015-2016 ở nhà bếp và các lớp, Tôi lên kế hoạch tham mưu với Hiệu trưởng để mua bổ sung đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho bán trú và đồ dùng cho các lớp như: Như soong, nồi, rá, xô, chậu, bếp, thớt, dao...cho nhà bếp đầy đủ.
Đối với các lớp tôi tham mưa mua sắm đầy đủ chiếu, giát giường, chăn, gối, bát thìa, ca, khăn...đầy đủ theo số lượng trẻ.
Tham mưu với Hiệu trưởng hợp đồng những nhân viên nuôi dưỡng có kiến thức kinh nghiệm, có năng lực, sức khỏe để đảm bảo phục vụ tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Nhờ vậy mà ngay từ đầu năm học trường đã ổn định đội ngũ nhân viên dinh dưỡng, trường có đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về thể chất lẫn tinh thần.
4. Kết quả đạt được:
Qua một năm chỉ đạo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường, với sự kết hợp đồng bộ các biện pháp trên, nhà trường đã có sự chuyển biến rõ rệt trong công tác VSATTP và đạt được một số kết quả sau:
4.1. Đối với nhà trường:
- Đội ngũ giáo viên, nhân viên có ý thức trách nhiệm cao trong việc giữ vệ sinh chung, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm. Biết vận dụng “Quy chế nuôi dạy trẻ” vào quá trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Đặc biệt, chú trọng công tác chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non.
- Nhân viên nuôi dưỡng thực hiện nghiêm túc công tác tiếp phẩm, quy trình chế biến, chia ăn, Nhà trường ký kết hợp đồng thực phẩm với các nhà cung cấp, lưu mẫu thức ăn hàng ngày. Chất lượng bữa ăn tại trường cho trẻ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, thay đổi thực đơn theo mùa đảm bảo đủ lượng và chất cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
- Giáo viên biết kết hợp lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ qua các hoạt động như tổ chức bữa ăn, các hoạt động khác trong ngày cho trẻ tại trường mầm non.
- Nhà bếp đã được trung tâm y tế dự phòng kiểm tra và công nhận bếp đạt vệ sinh an toàn thực phẩm. Dụng cụ: chén, thìa, ly được kiểm định đạt yêu cầu theo đúng quy định.
4.2. Đối với trẻ:
Hiểu được vệ sinh an toàn thực phẩm rất quan trọng đối với đời sống con người, biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường thông qua các giờ học tích hợp, vui chơi, ca dao, đồng dao…
Biết được một số lao động để giữ vệ sinh nơi công cộng, vệ sinh môi trường như: không vứt rác, khạc nhổ nơi công cộng, biết bỏ rác đúng nơi quy định, vệ sinh lớp học hàng ngày…và biết được công tác giữ vệ sinh rất quan trọng đối với sức khoẻ con người.
Trong năm học nhà trường không có trường hợp ngộ độc dịch bệnh xảy ra, 100% trẻ được ăn bán trú tại trường, đảm bảo an toàn, vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
Trẻ được tiêm chủng đúng lịch, khám sức khỏe theo định kỳ 2 lần/năm, được cân đo theo dõi biểu đồ tăng trưởng 3 lần/năm.
- Tỉ lệ trẻ tăng cân thường xuyên đạt 93,5%
- Tỉ lệ trẻ SDD đầu năm 4,5% cuối năm còn 0,96%
- Tỉ lệ trẻ thấp còi đầu năm 8,8% cuối năm còn 4,9%.
- Tỉ lệ trẻ thừa cân, béo phì đầu năm 2,3% cuối năm còn 1%
4.3. Đối với phụ huynh học sinh:
Tất cả các bậc cha mẹ học sinh đồng tình ủng hộ về cách giữ vệ sinh và phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn xảy ra trong nhà trường. Đã có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục trẻ biết giữ vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân và cùng nhau làm tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
III-KẾT LUẬN - KHUYẾN NGHỊ
- Kết luận:
Sức khỏe vô cùng quan trọng đối với con người, nếu không có sức khỏe thì cơ thể chậm phát triển và sinh ra nhiều bệnh tật. Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới tới sức khỏe đó là vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngộ độc thực phẩm có thể xảy ra với bất kỳ một ai, gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ. Vì vậy, việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm lớn của toàn xã hội hiện nay, Đặc biệt là đối với trường mầm non có tổ chức bán trú. Ngộ độc thực phẩm có thể phòng tránh được nếu chúng ta thực hiện tốt việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì vậy mà mỗi chúng ta, nhất là trường mầm non cần phải quan tâm công tác chăm sóc nuôi dưỡng để giúp trẻ có một sức khỏe tốt.
Từ thực tế làm công tác quản lý trường mầm non, với phần hành chỉ đạo công tác dinh dưỡng và sức khỏe nhà trường trong năm qua, bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ sau:
- Thường xuyên nâng cao nhận thức cho đội ngũ về chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục sức trẻ trong trường mầm non.
- Làm tôt công tác bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, vệ sinh trong ăn uống cho trẻ. Chú trọng công tác vệ sinh khu vực bếp, đồ dùng, dụng cụ nhà bếp và vệ sinh môi trường.
- Đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho việc tổ chức bán trú. Tăng cường các hoạt động giáo dục vệ sinh đối với nhân viên dinh dưỡng và vệ sinh cá nhân trẻ.
- Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng thực hiện tốt việc tạo nguồn thực phẩm sạch. Thực hiện nghiêm túc công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm. Yêu cầu trong chế biến và bảo quản thực phẩm.
- Thực hiện tốt việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng, phòng chống dịch bệnh cho trẻ.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra của ban giám hiệu đối với công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ. Đặc biệt, chú trọng việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền với cộng đồng và xã hội về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong trường mầm non.
- Thường xuyên đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo có hiệu quả về công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
Là một cán bộ quản lý tôi sẽ cố gắng nhiều hơn nữa và mong muốn chuyển tải những kinh nghiệm nhỏ của bản thân để trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp ở các trường bạn. Tuyên truyền sâu rộng đến tất cả các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng thấy được tầm quan trọng của việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
- Khuyến nghị
* Đối với UBND Quận:
Đầu tư kinh phí để bổ sung thêm các thiết bị hiện đại phục vụ công tác chăm sóc bán trú và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường.
* Đối với Phòng GD&ĐT
- Tham mưu với các cấp lãnh đạo bổ sung cơ sở vật chất, các trang thiết bi phục vụ công tác Chăm sóc nuôi dưỡng trong nhà trường.
- Phối hợp với trung tâm y tế dự phòng tiếp tục mở lớp bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên cốt cán, nhân viên y tế, nhân viên cấp dưỡng những kiến thức cơ bản về cách giữ vệ sinh và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non và cách tuyên truyền với các bậc cha mẹ học sinh về bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm.
* Đối với nhà trường:
- Tiếp tục tham mưu với lãnh đạo cáp trên hổ trợ kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất nhà trường.
- Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá, động viên khuyến khích giáo viên tham gia học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là tự học tự bồi dưỡng thông qua các chuyên đề, hội thảo, hội thi...
- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, vệ sinh trong ăn uống cho trẻ.
- Bổ sung đầy đủ các tài liệu, cơ sở vật chất và các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ công tác bán trú trong trường mầm non.
* Đối với giáo viên:
Nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của mình và luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, rèn luyện phẩm chất chính trị đạo đức của người giáo viên, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt chú trong VSATT cho trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Trên đây là một số biện pháp chỉ đạo công tác chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non của bản thân tôi, rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của các đồng chí đồng nghiệp để bản sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. /.
Xin trân thành cảm ơn !
Đức Giang, ngày 5 tháng 4 năm 2017
X. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lý và giáo viên mầm non năm 2009- 2010
Tạp chí giáo dục mầm non chuyên đề số 10 năm 2004.
Tạp chí giáo dục mầm non chuyên đề số 15 năm 2010.
Tài liệu diễn đàn về vệ sinh an toàn thực phẩm
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ II (Của vụ Giáo dục mầm non)